Hưởng ứng ngày đái tháo đường thế giới 14/11 – Nâng cao nhận thức toàn cầu về bệnh đái tháo đường
Đái tháo đường là tình trạng tăng đường huyết mạn tính đặc trưng bởi tình trạng rối loạn chuyển hóa cacbonhydat, kèm theo các rối loạn chuyển hóa lipid, protein do giảm tương đối hoặc tuyệt đối tác dụng sinh học của insulin hoặc tiết insulin.
Ths. Bs Lê Na – Trưởng khoa Nội tiết – Đái tháo đường cho biết, bệnh đái tháo đường được chia thành 4 nhóm, đó là đái tháo đường type 1, đái tháo đường type 2, đái tháo đường thai kỳ và đái tháo đường đặc biệt (do bệnh lý tụy, do thuốc, do bệnh lý nội tiết…). Đái tháo đương type 1 do các tế bào beta tuyến tụy bị phá hủy bởi chất trung gian miễn dịch dẫn tới thiếu insulin tuyệt đối. Bệnh tiến triển nhanh, gặp ở người trẻ < 30 tuổi với các biểu hiện rầm rộ: khát nhiều, uống nhiều, sút cân, mệt mỏi. Điều trị bắt buộc bằng insulin. Đái tháo đường type 2 chiếm 90 – 95%. Đái tháo đường ở người lớn tuổi > 30, bệnh có tính chất gia đình. Đặc trưng của đái tháo đường type 2 là tình trạng kháng insulin đi kèm thiếu hụt insulin tương đối. Đái tháo đường type 2 thường diễn biến âm thầm, thường phát hiện muộn, phần lớn người bệnh đến khám là do các biến chứng của đái tháo đường như nhìn mờ, tê bì chân, vết loét lâu liền,… Đến giai đoạn có các biểu hiện khát nước, tiểu nhiều, gầy sút cân thì phần lớn người bệnh đã có nhiều biến chứng kèm theo.
Biến chứng của đái tháo đường được chia thành biến chứng mạn tính và biến chứng cấp tính. Biến chứng cấp tính như hôn mê tăng áp lực thẩm thấu, toan ceton do tăng đường máu, hôn mê do hạ đường máu.
Biến chứng của bệnh Đái tháo đường (Ảnh minh họa) |
Biến chứng mạn tính như tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid. Rối loạn chuyển hóa Lipid là nguyên nhân gây ra xơ vữa mạch máu. Nồng độ đường trong máu tăng cao và sự dao động lượng đường máu là yếu tố chính gây ra tổn thương các mạch máu nhỏ. Do tổn thương các mạch máu nhỏ sẽ gây ra các biến chứng về thần kinh thực vật (tụt huyết áp, đổ mồ hôi, nôn, buồn nôn, tiểu tiện không tự chủ, đại tiện táo hoặc lỏng, lãnh cảm, rối loạn chức năng sinh dục…); thần kinh ngoại vi (người bệnh có cảm giác kiến bò, tê, bỏng rát… thường bị ở chân và tay); bệnh lý về võng mạc (xuất tiết, xuất huyết võng mạc… có thể gây giảm thị lực và dẫn đến mù); bệnh lý cầu thận, bệnh lý bàn chân … Ngoài ra, đái tháo đường gây biến chứng bệnh mạch vành, 75% người bệnh đái tháo đường mắc bệnh lý mạch vành. Nguy cơ tử vong do bệnh mạch vành ở bệnh nhân đái tháo đường cao gấp 4 lần so với người bị bệnh mạch vành không kèm theo đái tháo đường. Bệnh có liên quan đến rối loạn chuyển hóa Lipid và các mảng xơ vữa động mạch. Ngoài ra, còn dẫn đến suy tim, tai biến mạch máu não, một số biến chứng ngoài da (mụn nhọt, ngứa, nấm da…), hô hấp (viêm phổi, phế quản do bội nhiễm) …
Yếu tố nguy cơ của đái tháo đường type 2 là thừa cân, béo phì, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid, trực hệ có người bị đái tháo đường, tiền sử có đái tháo đường thai kỳ, phụ nữ sinh con > 4 kg,…
Do bệnh có tính chất mạn tính và có thể gây nhiều biến chứng, người bệnh nên phối hợp chặt chẽ với thầy thuốc chuyên khoa để kiểm soát tốt đường máu giúp ngăn ngừa biến chứng. Ngoài ra, người bệnh cần thay đổi chế độ ăn uống, hạn chế thực phẩm chế biến sẵn, thực phẩm đóng hộp; hạn chế ăn đồ ngọt như: bánh kẹo, trái cây đóng hộp, trái cây ngọt; hạn chế ăn tinh bột; không ăn mặn; hạn chế uống rượu, bia; không hút thuốc lá; tăng cường vận động, thể dục thể thao phù hợp với sức khỏe, kiểm soát cân nặng, tránh béo phì.
Để phòng tránh bệnh đái tháo đường, mỗi chúng ta cần kiểm tra sức khỏe định kỳ 6 tháng/ lần; kiểm soát cân nặng tránh béo phì; không hút thuốc lá; có chế độ ăn uống khoa học: ăn ít chất béo, hạn chế tinh bột, ăn nhiều rau xanh, trái cây, chất xơ; tăng cường luyện tập thể dục, thể thao …/.